Hàng năm Canada tiếp nhận số lượng di dân tương đương 1% dân
số (hơn 35 triệu vào năm 2016). Theo số liệu do cơ quan thống kê Canada (Statscan)
công bố cuối năm ngoái, hơn 1/5 người Canada là di dân, tỷ lệ cao nhất trong 95
năm. Cụ thể, 21.9% người Canada cho biết mình là hoặc đã từng là di dân hoặc thường
trú nhân (PR), gần bằng với kỷ lục 22.3% năm 1921 và tăng từ mức 19.8% năm
2006.
Statscan ước tính di dân có thể chiếm tới 30% tổng dân số
Canada vào năm 2036.
Chiến lược di trú do chính phủ liên bang đệ trình Hạ viện đầu
tháng 11/2017 đưa ra “các chỉ tiêu di trú tham vọng nhất trong ịch sử gần đây”.
Theo đó, Canada sẽ nhận gần 1 triệu di dân trong 3 năm tới. Từ mức 300.000 năm
2017, con số này trong mỗi năm 2018-2020 sẽ lần lượt là 310.000,330.000 và
340.000.
Di dân là một phần quan trọng trong chiến lược của Canada nhằm
bù đắp cho tác động của dân số lão hóa. Vào năm 2035, ước tình 5 triệu người
Canada sẽ về hưu, và 25% dân số Canada sẽ trên 65 tuổi. Năm 1971 có 6.6 người
trong độ tuổi lao động cho mỗi người về hưu, nhưng tới năm 2012 tỷ số đó đã giảm
xuống còn 4,2:1, và dự báo là chỉ còn 2:1 vào năm 2035. Tỷ lệ sinh sản của Canada
là 1,6, xếp hạng 181 toàn cầu, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ thay thế 2,1 của
Canada.
Hiện nay di dan chiếm 65% mức tăng dân số ròng hàng năm của
Canada. Gần 100% mức tăng dân số ròng của Canada sẽ là nhờ vào di dân vào năm
2035. Vào năm 2035, mỗi năm cần 350.000 di dân để đáp ứng nhu cầu nhân lực cảu
Canada.
Lực lượng lao động Canada ngày càng dựa nhiều vào di dân có
học vấn cao, theo Điều tra Dân số 2016. Canada có tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng/ đại
học cao nhất trong các nước đã phát triển, một phần vì những di dân gần đây có
trình độ học vấn cao. Trong nhóm tuổi từ 25 đến 64, có tới 54% người Canada có
bằng cao đẳng/ đại học, tăng từ mức 48.3% vào năm 2006. Tỷ lệ di dân có bằng thạc
sỹ hoặc tiến sỹ cao gấp đôi so với người sinh ra ở Canada.
Những con đường định cư Canada
Theo thông tin trên mạng chính thức của Bộ Di Trú, Tị nạn và
Quốc tịch Canada (IRCC), các diện di dân bao gồm: tị nạn và nhân đạo, bảo lãnh đoàn
tụ gia đình, và kinh tế.
Nói đơn giản, ngoài diện tị nạn và nhân đạo với những hoàn cảnh
và yêu cầu đặc thù, muốn trở thành thường trú nhân Canada, điều kiện cần đầu tiên
là ít nhất ba chữ T: tình, tài hoặc tiền. Nghĩa là có người thân bảo lãnh hoặc
có kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp có nhu cầu cao hoặc có thật nhiều tiền (nhưng
phải là tiền sạch) để đầu tư, kinh doanh.
Số người tị nạn được tiếp nhận tùy theo bối cảnh quốc tế tại
mỗi thời điểm, ví dụ chỉ trong vài tháng đầu năm 2016 Canada nhận 25.000 người
tị nạn từ Syria. Trong khi đó, hiện nay chính phủ liên bang đau đầu với dòng người
xin tị nạn vượt biên trái phép từ Mỹ sang (chủ yếu đổ vào Quebec) sau khi chính
quyền Trump chấm dứt quy chế bảo vệ tạm thời đối với một số người nước ngoài lánh
nạn chính trị hoặc thiên tai ở Mỹ lâu nay.
Theo diện đoàn tụ gia đình, công dân hoặc thường trú nhân
Canada 18 tuổi trở lên có thể bảo lãnh vợ/ chồng, con cái, cha mẹ và ông bà. Riêng
chương trình bảo lãnh cha mẹ và ông bà (PGP) từ năm 2017 áp dụng hình thức xổ số:
người muốn bảo lãnh trước tiên nộp mẫu ý định bảo lãnh người thân sau đó IRCC có
chọn ngẫu nhiên một số đương đơn để mời nộp hồ sơ bảo lãnh. Những người không được
mời phải đợi đến năm sau, hoặc có thể xin cho người thân mình loại super visa có
thời hạn 10 năm với quyền nhập cảnh Canada nhiều lần.
Do hình thức xổ số này bị những người muốn bảo lãnh bất thành
phản ứng dữ dội, hôm 20/8/2018 IRCC thông báo sẽ bỏ và từ năm 2019 sẽ quay lại
hệ thống cũ ‘ ai nộp trước có trước’. IRCC thông báo sẽ nhận tới 20.500 hồ sơ
diện bảo lãnh PGP năm 2019, và 21.000 vào năm 2020, tăng từ 17.000 trong năm
nay và 10,000 vào năm 2016.
Các diện kinh tế đóng
góp số lượng di dân nhiều nhất ở Canada, thường chiếm 50-60%. Canada tiếp nhận
1,2 triệu di dân mới từ năm 2011 tới năm 2016, với 60,3% là di dân diện kinh tế
- gần một nửa trong số đó là thông qua chương trình người lao động có kỹ năng
chuyên môn.
Diện kinh tế gồm những người lao động có kỹ năng chuyên môn
(skilled worker), lao động kỹ thuật có tay nghề (skilled trade), hoặc người có vốn
kinh doanh muốn đầu tư.
Diện kinh tế có những người tự làm chủ/ làm việc độc lập (self-employed) có kinh nghiệm liên quan về các ngành văn hóa hoặc thể dục thể thao, hoặc nông dân. Ngoài ra còn có tiểu loại dành cho người cung cấp dịch vụ chăm sóc người khác (caregiver), như bảo mẫu giữ trẻ toàn thười gian tại một gia đình trong ít nhất 2 năm, y tá/ điều dưỡng/ người chăm sóc tại gia cho người có nhu cầu y tế cao trong ít nhất 2 năm.